Trong phần trước, chúng tôi đã giới thiệu với quý bạn đọc giả thiết về sự hình thành nghề tóc và sự xuất hiện của ông tổ nghề tóc Việt Nam, có thể đó là những năm cuối thế kỷ XIX. Nhưng từ xa xưa, tổ tiên ta đã biết yêu chuộng cái đẹp và chăm chút cho mái tóc. Hãy cùng ngược dòng lịch sử và tìm hiểu về sự xuất hiện ông tổ nghề tóc VN từ những ngày đầu lập quốc…

Ông tổ nghề tóc VN xuất hiện ở thời Hùng Vương?

Nhưng nhìn lại lịch sử văn minh Việt Nam, trước năm 1905, người Việt đã cắt tóc ngắn và trong xã hội đã phát triển nhiều ngành nghề thủ công. Theo Uỷ ban Khoa học Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB Khoa học Xã hội, 1971, tr. 48, thì “ người Việt thời Hùng Vương – thời dựng nước buổi đầu tiên, ai cũng xăm mình. Ai cũng búi tó hoặc cắt tóc ngắn (cũng có người bỏ xõa tóc hoặc tết đuôi sam)”. Có tóc ngắn, tức là có cắt tóc.

Tuy nhiên, đây là thời kỳ mà thiết chế Nhà nước cũng như tổ chức xã hội còn hết sức sơ khai. Cộng đồng dân cư là các bộ lạc từng bước sáp nhập với nhau. Đời sống kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, chưa hề có thương mại – dịch vụ, với tục nhuộm răng, ăn trầu và thờ cũng tổ tiên, ưa chuộng lễ hội, múa hát; trong khi, trình độ kỹ nghệ mới bấy giờ mới bước qua thời đại đồ đá và tiến tới văn minh đồng thau, với kỹ thuật đúc đồng. Các di chỉ để lại cho thấy mãi sau này mới có các dụng cụ nông nghiệp thô sơ và có nghề luyện sắt thực sự phát triển để cho ra các công cụ dành cho việc cắt tóc như dao, kéo.

Như vậy, người phụ trách việc cắt tóc cho các cư dân bộ lạc ở thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc không thể là “thợ”, và cắt tóc lúc đó cũng chưa phải là một “nghề”.

Ông tổ nghề tóc VN xuất hiện từ thời Lý?

Lịch sử Việt Nam sang trang với mô hình Nhà nước phong kiến, nhưng phải đến triều Lý, người Việt mới đạt được những thành tựu rực rỡ trong đời sống kinh tế – văn hóa.

Theo “Lịch sử Văn hóa Phật giáo Việt Nam” của Lê Mạnh Thát, trước khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, VN đã có một lịch sử Phật giáo tương đối phát triển. Sách này cũng trích dẫn các tích về Phật tử đầu tiên là Chử Đồng Tử, thuộc thế kỷ thứ 2-3 trước Công nguyên (BC) và nhiều chứng cứ khác cho thấy Phật giáo đã du nhập vào nước ta từ khoảng thế kỷ thứ 2 BC. Tuy nhiên, từ thành Luy Lâu – trung tâm Phật giáo lớn thời Bắc thuộc, với các câu chuyện về Thạch Phật Quang và Phật Mẫu Man Nương, cũng phải trải qua gần 1.000 năm, đến triều Lý Thái Tổ (1010 – 1028), lịch sử Phật giáo mới không còn thuần túy là những huyền thoại hay truyền thuyết.

Trong thời Lý Thái Tổ, từ quan đến dân đều là Phật tử. Ai cũng dành một khoảng thời gian trong cuộc đời để quy y học giáo lý nhà Phật. Lê Quát sống vào cuối đời Trần, nhận xét: “Từ trong kinh thành cho đến ngoài châu phủ, kể cả những nơi thôn cùng ngõ hẻm, không bảo mà người ta cứ theo, không hẹn mà người ta cứ tin, hễ nơi nào có nhà ở là ắt có chùa chiền… Dân chúng quá nửa nước là sư…”. Phật giáo thậm chí hòa làm một thành tín ngưỡng dân gian. Tục bán khoán cho con vào chùa là một ví dụ.

Theo quan niệm của người xưa, trẻ nhỏ từ khi mới sinh đến tuổi trưởng thành phải nhờ sự nuôi dưỡng, dạy dỗ chăm sóc của cha mẹ. Không những thế còn phải được sự che chở phù hộ, độ trì của Phật, Thánh. Vì thế người xưa đã có tục bán khoán, tức là làm lễ để cầu xin Phật Thánh nhận trẻ nhỏ làm con (con bán) và giúp đỡ chúng đến tuổi trưởng thành. Cho tới nay tục bán khoán vẫn còn và nhiều người vẫn “bán” con vào chùa cho đến năm 13 tuổi, hết một giáp thì chuộc về (làm lễ “tháo khoán”), hoặc bán cho hết đời.

Dưới triều nhà Lý, kỹ thuật cũng đã phát triển, đặc biệt là luyện kim, đúc thuyền chiến, súng thần công, các vũ khí bằng sắt. Ngoài ra, dệt, gốm và xây dựng cũng là những kỹ thuật truyền thống tiêu biểu (Nguồn: Tiến trình Lịch sử Việt Nam – Nhà xuất bản Giáo dục – PGS.TS Nguyễn Quang Ngọc. Tr 100 đến 105).

Như vậy, căn cứ trên việc phát triển kỹ thuật và nhu cầu xã hội, có thể nói vào thời nhà Lý, nghề cắt tóc đã ra đời (?) Và ông tổ nghề cắt tóc, người đầu tiên khởi xướng, đào tạo, truyền dạy nghề cắt tóc, rất có thể là một vị sư, đã bắt đầu từ việc “phát” cho Phật tử quy y, đến việc cắt tóc cho trẻ con trong các lễ bán khoán, với những kiểu tóc đã có từ thời xưa (theo Đào Duy Anh) như ba chỏm, trái đào, tóc cút?

Còn có thêm một luận chứng có thể giúp củng cổ giả thuyết này, là: Sau nhà Lý, đạo Phật tiếp tục được hoằng dương qua đời Trần – Lê. Học giả Lê Quý Đôn, trong sách “Kiến văn tiểu lục”, (NXB Khoa học Xã hội, 1977, tr. 68-70): “Thời nhà Trần, người trong nước đều cạo đầu, cho nên trong Sứ Giao Châu thi tập của Trần Cương Trung nhà Nguyên chua rằng: "con trai đầu trọc, người nào có quan chức thì trùm đầu bằng khăn xanh, nhân dân đều như sư cả". Tục cắt tóc này đến Hoàng Phúc nhà Minh mới cấm, nay dân ở Kiên Lao và Trà Lũ huyện Giao Thuỷ (Nam Định ngày nay) vẫn còn giữ tục ấy.(…) Đàn bà cắt tóc để lại 3 tấc tết ở trên đỉnh đầu, buộc lấy đầu sợi tóc rồi búi chặt lại và cài bằng trâm, ở đằng sau gáy không có tóc, cũng không xoa dầu xoa sáp gì cả. (…) Tôi nhận thấy, đấy là phong tục triều nhà Trần, đến bản triều ngày nay thì tục đội khăn xanh, mặc áo thâm, cắt tóc và xăm mình đã thay đổi rồi”.

Như Lê Quý Đôn cho biết, thời nhà Trần dân dân ta đã gọt tóc hay ít nhất cũng là cắt tóc ngắn. Mà việc cắt tóc như một nhu cầu xã hội thì lại nảy sinh và phổ cập từ thời Lý; tức là, dưới triều Lý, cắt tóc đã chính thức trở thành một nghề, và ông tổ nghề tóc đã xuất hiện cùng các kiểu tóc của người Việt, xem ra, là có lý hơn cả.

Lời kết

Và như vậy thì nghề tóc ở VN đã có từ 1.000 năm trước, song hành cùng những thăng trầm của dân tộc Việt.

Tuy nhiên, dù thế nào thì những lập luận trên cũng chỉ là quan điểm cá nhân, với những dẫn chứng lịch sử, văn hóa nói chung và những đặc thù nghề nghiệp của ngành tóc nói riêng. Vì vậy, người viết rất mong sẽ nhận được phản hồi, ý kiến đóng góp về chủ đề này hoặc chỉ ra những sai sót hay dẫn chứng chưa chính xác, chưa đủ sức thuyết phục, nếu có, để có thể hoàn thiện hơn nữa “công cuộc” truy tầm thời điểm xuất hiện nghề tóc ở VN, và từ đó có thể tìm ra lý lịch nhân vật đã khai sinh ra nghề tóc Việt Nam!

Chuyên đề Tóc Đẹp số 41
 
Exit mobile version